Tuesday, May 12, 2015

Thơ Paul Celan

Hai đoạn thơ của Paul Celan trong tập Atemwende= Breathturn= Vòng xoay Hơi thở, do Pièrre Joris dịch sang tiếng Anh



Tập thơ gồm nhiều đoạn, không nhất thiết có liên hệ với nhau, và có thể đọc nhẩy. Chúng như những cảm xúc thơ, ghi ký thơ, từng khúc rất ngắn tâm thức.

*



WEGE IM SCHATTEN-GEBRÄCH

diener Hand


Aus der Vier-Finger-Furche

wühl ich mir den

versteinerten Segen.

----


PATHS IN THE SHADOW-BREAK

of your hand


From the four-finger-furrow

I root up the

petrified blessing.

---


NHỮNG CON ĐƯỜNG BÓNG-GẪY

trong tay em


Từ luống cầy bốn ngón

Tôi đào gốc

Phước ban đáng sợ.


---



DIE SCHWERMUTSSCHNELLEN HINDURCH,

am blanken

Wundenspigel vorbei:

da warden die vierzig

entrindeten Lebensbäme  geflößt..


Einzige Gegen-

schwimmerin, du

zählst sie, berührst sie

alle.


---


DOWN MELANCHOLY’S RAPIDS

past the blank

woundmirror

There the forty
stripped lifetrees are rafted


Single counter-

swimmer, you

count them, touch them

all.


---


Ở THÁC THẢM SẦU

quá chốn

    trắng xóa

gương thuơng tích


Có bốn mươi

cây sống bị lột truồng

                 cột lại 
   thả trôi


Anh/em,

kẻ lội ngược dòng đơn độc

đếm chúng,
           
          sờ nắm

              mọi thân.



 CH

Cả hư vô cũng vô nghĩa

Đọc thơ Paul Celan


Có khi đọc một ít bài thơ như giải toán. Đó là trường hợp đọc những bài thơ của nhà thơ Paul Celan, người Romania gốc Do thái . Lý do: Trong những bài đó ý nghĩa/ngữ cảnh ( context) sử dụng trong/cho  ý thơ, nội dung đã được Paul Celan thanh lọc và trùm lên những ý nghĩa mới cho một số con chữ. Vì vậy, bước vào “thế giới” thơ Paul Celan, như đi vào một  khu rừng  lạ lẫm, kín bưng, chúng ta cũng cần một số dụng cụ, như dao, rìu, búa để “giải tỏa” nhiều  cây chắn, bóng lá quá rườm rà che khuất ánh sáng. Và cũng như giải toán , ta cần hiểu một số khái niệm căn bản, biết dùng một số công thức, lần mò ra được các gút thắt, mở trong các giai đoạn chứng minh.  Bài thơ “Corona “ này là một trong số những bài thơ, không phải hũ nút, mà  “đóng nút” như thế. Sometimes, it is almost impossible to penetrate, unless you read and read more on P. Celan.

Chữ  trong bài “Corona”( Vòng Hỏa Nhật Thực) thì dễ. Nhưng để hiểu Celan muốn nói gì thì thật khó khăn—nếu không đọc nhiều về thơ nói chung, về thơ P. Celan và ông nói riêng.




Bản tiếng Đức

Corona

Aus der Hand frißt der Herbstmir sein Blatt: wir sind Freunde.
Wir schälen die Zeit aus den Nüssen und lehren sie gehn:
die Zeit kehrt zurück in die Schale.

Im Spiegel ist Sonntag,
im Traum wird geschlafen,
der Mund redet wahr.

Mein Aug steigt hinab zum Geschlecht der Geliebten:
wir sehen uns an,
wir sagen uns Dunkles,
wir lieben einander wie Mohn und Gedächtnis,
wir schlafen wie Wein in den Muscheln,
wie das Meer im Blutstrahl des Mondes.

Wir stehen umschlungen im Fenster, sie sehen uns zu von der Straße:
es ist Zeit, daß man weiß!
Es ist Zeit, daß der Steinsich zu blühen bequemt,
daß der Unrast ein Herzschlägt.
Es ist Zeit, daß es Zeit wird.

Es ist Zeit.


bản dịch của A.S. Kline

Corona

From my Hand the Autumn eats its Leaf: we are Friends.
We shell Time from Nuts and teach it to walk:
Time returns to the Shell.

In the mirror it’s Sunday,
in Dream there is sleep,
the Mouth speaks true.

My eye bends down to the Sex of my Loved One:
we gaze at each other,
we speak a Darkness between us,
we love each other as Poppy and Memory,
we sleep like Wine in the Mussel,
like the Sea in the Blood-Beam of Moons.

We stand entwined at the Window, they look up at us from the
Street:
it is Time, that they knew!
It is Time, that the Stone condescended to flower,
that Unrest’s Heart beat.
It is Time that it became, Time.

It is Time.


bản dịch của Michael Hamburger

Autumn eats its leaf out of my hand: we are friends.
From the nuts we shell time and we teach it to walk:
then time returns to the shell.


In the mirror it's Sunday,

in dream there is room for sleeping,
our mouths speak the truth.

My eye moves down to the sex of my loved one:
we look at each other,
we exchange dark words,
we love each other like poppy and recollection,
we sleep like wine in the conches,
like the sea in the moon's blood ray.

We stand by the window embracing, and people look up from
the street:
it is time they knew!
It is time the stone made an effort to flower,
time unrest had a beating heart.
It is time it were time.

It is time.



Vòng Hỏa Nhật Thực

Mùa Thu nghiến chiếc Lá nơi bàn tay tôi: chúng tôi là bạn
Từ hột của đất trời
       chúng tôi gỡ
              Thời gian
                ra
                  và chỉ cho nó đi đứng
rồi Thời gian
        trở lại với vỏ

Trong gương, đấy là Chủ nhật
Trong mơ, có chỗ để ngủ
cái miệng nói sự thật


Mắt tôi nhìn xuống hạ bộ của người yêu
chúng tôi nhìn nhau
trao nhau ngôn ngữ bóng tối
chúng tôi yêu nhau như anh túc cam rực
         và bằng hồi tưởng
chúng tôi ngủ như vang trong sò
như biển trong vầng trăng nhuốm máu.

Chúng tôi ôm nhau đứng bên cửa sổ, dưới đường người ta
nhìn lên:
Đấy là Thời gian, họ biết
Đấy là Thời gian, khi đá chịu nở hoa
thời gian khi Chênh chao gõ nhịp tim
Đấy là Thời gian,
            khi nó trở thành
                            Thời gian.

Nó là Thời gian.

Chân Huyền



Notes

1. Để “vào” (tiến nhập) bài thơ này, cần biết một số chi tiết, trong đó, cần thiết, là:
    Celan là 1 nạn nhân của Đức quốc xã, bị bắt tù và lao động khổ sai đập dọn đá ở Rumania. Mẹ Celan cũng bị lao độngkhổ sai, và chết trong trại khổ sai năm 1942 .Trước đó, Celan đãtừng khuyên cha mẹ phải bỏ xứ   trốn lánh đi, nhưng cha mẹ Celan không đi và sau đó, khi ông có việc rời nhà một thời gian ngắn, lúc trở về thì hay tin cha mẹ đã bị tập trung và đày đi lao động khổ sai tại Transnistria, vì là dân gốc Do thái. Tin cho hay bà bị bắn chết, sau khi kiệt sức vì lao động khổ sai. Điều này làm cho ông đau khổ suốt nhiều năm, vì cho rằng vì mình xa cha mẹ khoảng thời gian đó, nên sự tình mới xảy ra như thế. Nhưng chính ông, mấy tháng sau, vào năm 1942, cũng bị bắt đi đầy lao động khổ sai tại một trại khổ  sai khác.

2. Mùa Thu trong bài thơ là ý nói đến mùa Thu tang khốc, bi thương cho dân tộc Do thái bắt đầu từ mùa Thu năm 1941, khi các trại tập trung biến thành mồ chôn tập thể cho biết bao người gốc Do thái khắp nơi. Nếu ai đã từng là tù nhân "cải tạo" ở VN hay là thân nhân của những người tù tập trung (cải tạo), thì đều biết và cảm nhận được ít nhiều, dù có những khác biệt giữa hai trường hợp, những nỗi đau, nỗi “nhục”, nỗi đoạ đày, vừa hình hài thể xác đến tâm hồn, những bi uất, tang thương, cắn xé, dày vò, dấu trong đáy lòng của nhiều tù nhân trong cuộc biển dâu đau buồn tháng Tư 1975, cũng như phần nào niềm thống khổ của Paul Celan-- khi đọc đủ về ông.

3. Thời gian, thời gian. Như Paul Celan muốn nói đến , thì Thời gian “là gì”, có khuôn mặt như thế nào ở đây?

4. “wir sagen uns Dunkles”:  3 cách dịch sang tiếng Anh :

   M. Hamburger: “ We exchange dark words”
   A.S. Kline: “We speak Darkness between us”
   A. Cojocaru:  “ We speak of dark things”

Lý do : vì chữ “Dunkles” trong Đức ngữ khá mơ hồ, hỗn độn, có thể gây lộn xộn ý nghĩa, không để ý kỹ dễ gây nhầm lẫn: vừa có thể là tĩnh từ, vừa có thể danh từ. Trong trường hợp này, theo cú pháp nó được sử dụng như một danh từ. Một khả năng, dù hiếm:  Có thể Hamburger và Cojocaru lại nhìn nó như một tĩnh từ/hình dung từ để bổ nghĩa cho một danh từ đi sau tiềm ẩn , và theo nội dung/ngữ cảnh của câu văn thì là có ‘những” điều đau khổ, xám ngoét, đen tối, chứ không phải chỉ “một”. Nhiều phần chắc hơn là 2 người đã coi nó như một tĩnh từ đã biến loại thành danh từ ( adjectival nouns).  Nhưng cũng có thể cả hai quên (?) rằng “neuter form” của từ Dunkles, không mang giống, và cần dịch là “bóng tối”, tức “darkness” như A.S. Kline đã dịch .

Dịch "chính xác" sang tiếng Việt : Chúng tôi nói với nhau về bóng tối


5. Nhìều nhà văn, thơ, độc giả than phiền “chữ nghĩa” của P.Celan nhiều khi mang tính cách ngôn ngữ của kẻ ẩn sĩ chốn hoang tịch cô liêu (hermitic), hoặc “mệt” hơn nữa, mang tính tự tri, tự giác một mình, viết ra đại đa số người khác sẽ không hiểu, vì cái quá mới lạ của nó mà ý nghĩa chưa được chấp nhận hay phổ cập — neologistic. Cũng phải thôi, và có lẽ để hiểu hơn thì cũng là những kẻ thân cận với nạn nhân những Lò thiêu.


CH


----

https://www.youtube.com/watch?v=RoXbPTmFlt8




Paul Celan (1920-1970)

Quỳnh (Epiphyllum)





Cựu Đô đốc Lawrence Chambers

Người có trái tim nhân ái rông lớn, cựu Đô đốc Lawrence Chambers, năm 1975 là Thuyền trưởng HKMH USS Midway. Ông đã quyết định đẩy nhiều trực thăng, máy bay xuống biển, dù có thể bị phạt rất nặng vì vi phạm quân kỷ , để cứu các phi công VNCH và nhiều người
The great heart of Admiral ( USN Ret) Lawrence Chambers, then 1975 Captain of the USS Midway, who pushed off a bunch of helicopters and planes to save more Vietnamese pilots and people.


http://www.nbcsandiego.com/news/local/Hundreds-Commemorate-Fall-of-Saigon-on-USS-Midway-301373761.html


Vietnamese American Youth Alliance of San Diego (VAYA)'s photo.

CĐĐ L. Chambers trên USS Midway tại San Diedo, ngày 4/26/2015