Monday, January 23, 2017

Dionysus, Quan niệm Tín ngưỡng Hi lạp & F. Nietzsche

                                             * * *


Mùa xuân này chúng ta thử cùng nhau dạo chơi khu vườn Thần thoại của người Hi lạp cổ xưa , thưởng thức rượu nho Zinfandel, Cabernet Sauvignon, Merlot hay Pinot noir v.v. và thử tìm hiểu về phong cách và thần thái một vị thần quan trọng của Thần thoại Hi lạp nhé. Đó là thần của Rượu nho, Nghệ thuật Đi-ô-ní-si-ốt (âm Hi lạp của  Διονύσιος = Bacchus ( La tinh, Ý), Dionysus (Anh), hay Dionysos (Pháp)

Thế giới của Phạm thiên ( Brahma), Vishnu, Shiva trong Bà la môn giáo, hay các tầng trời từ Phạm thân thiên đến Đại phạm thiên đạo Phật; Thượng đế đạo Sikh, hay Thánh Hồn ( Perfect soul of Jinas) đạo Kỳ-na giáo ( Jainism) , hoặc Ngọc hoàng thượng đế, Tây vương mẫu, Thái thượng lão quân v.v… bên Trung hoa, cho ta cảm nhận về một thế giới với đặc tính và cốt cách khác con người. Trong các thế giới tiên thần ấy, các quan niệm về tôn giáo cho thấy các thiên, tiên, thần ít nhiều đều phải trải qua một thời gian tu luyện, nên cách ứng xử, thái độ , qua truyền thuyết, sách vở, mang ít nhiều vẻ kỷ luật, thúc liễm, giới hạnh hơn các thần trời Hi lạp.


Không như thần tiên Á đông thường mang vẻ “xa cách”, chịu những luật lệ nghiêm ngặt hơn về cách ứng xử, các thần Hi lạp phương mang nhiều tính cách gần gũi với con người hơn— tuy đây là những con người thường được mô tả là có những ưu điểm vượt trội ( noble humans); và trong biểu cảm , thái độ cũng có nhiều nét mà con người có thể nhận thấy sự đồng cảm, không phân biệt xa cách
.


Đi-ô-ní-si-ốt (âm Hi lạp ) là vị thần của rượu nho, vũ điệu, nghệ thuật, nhất là nghệ thuật sân khấu; của sự Say sưa, Tràn bờ và Màu mỡ ( Fertility).

Thần Đi-ô-ní-si-ốt—  khác với tất cả các thần khác trong thần thoại Hi-lạp— có mẹ là người trần thế (như chúng ta); cha là Thần Zeus ( Ζεύς ) Chúa tể trời xanh và là người cai quản tất cả các thần trên núi Olympus ( the Olympian gods)

Chuyện kể về thần Dionysus ly kỳ như sau :

Cha ông là Vua (trời xanh ) Zeus, chủ tể của các thần ở núi Olympus, một hôm đi chơi ngang trần gian ở Thebes, gặp con vua Cadmus, công chúa Semele dung mạo phi phàm, thiên tiên diễm lệ nên lòng “chàng” đổ, và tìm cách ăn ở với nàng. Tin đến tai Hoàng hậu nước trời Hera, bà ghen tuông nên kiếm cách hại Semele. Khi ấy là lúc bà Semele đang có thai Dionysus với Đế Zeus. Hera giả làm một bà già , đến làm quen với Semele. Khi đủ thân, bà giả vờ hỏi Semele là cha của đứa bé trong bụng là ai, và tỏ vẻ nghi ngờ rằng cha của đứa bé không thể là một vị thần uy nghi lớn lao như Zeus; bà khôn ngoan cũng gieo vào lòng nàng Semele sự nghi ngờ về thân phận của đế Zeus. Vì vậy , nên một ngày kia, nàng Semele nhất định yêu cầu Zeus phải lộ thật tướng của mình như đúng thật là vị chủ tể cõi trời Olympus. Đây là điều cực ngặt nghèo, khó thể thi hành, vì đó là điều cấm kị trong luật lệ nước Trời. Nhưng vì Semele nhất định muốn biết, nên Zeus đành lòng phải hiện hình y như hình hài vị vua trời. Zeus đã cố tình hiện ra với ánh sét nhỏ nhất để mong bảo toàn tính mạng cho bà Semele nhưng đìều phải đến đã đến: Khi đế Zeus hiện ra hình dạng với sấm sét, Semele thấy được, nhưng theo quy luật nhà Trời của Zeus và cha ông trong đất trời  Hi lạp nguyên sơ, bà phải chết vì đã đòi được xem nguyên hình, chân dạng của thần. Bà bị chính ánh sét, là vũ khí được trao truyền , đại diện quyền năng của Zeus hủy diệt. Nhưng Dionysus thì may mắn được cha cứu thoát : Zeus may (sewed) Điônísiốt vào đùi , rồi bay đi. 

Khi biết được giọt máu của bà Semele là Dionysus còn sống, hoàng hậu Hera, khi đó vẫn chưa hết giận , bèn sai các thần Titans giết Dionysus, và chàng bị xé ra nhiều mảnh. May thay bà nội là Nữ thần Rhea cứu sống lại. Vì thế trong văn họcc Hi lạp, La mã, v.v.  Dionysus còn là biểu tượng của Tái sinh.

Sau đó, đế Zeus giao Dionysus các nàng dâm gái núi ( mountain nymphs ) nuôi. Lớn lên Dionysus trở thành một chàng rất đẹp trai, khôi ngô. Dionysus học được cách trồng nho, và là người đầu tiên nuôi men làm rượu nho. Nhưng Hera vẫn căm thù Dionysus nên làm phép đánh chàng bị khùng điên, và đày đi khắp nơi xa xôi. May mắn lại đến với Dionysus— khi đến xứ Phrygia, nay thuộc Thổ nhĩ kỳ, chàng lại được Nữ thần Cybele chữa trị, cứu cho và dạy cho những nghi thức tế lễ.  

Từ đó, Dionysus lang thang khắp nơi để truyền cách trồng nho, làm rượu nho, cũng như trao truyền nghệ thuật, nghệ thuật sống đam mê, say sưa.  Bên cạnh chàng thường có những "đệ tử",  nàng hầu xinh đẹp (maenad) , theo chàng vì yêu nghệ thuật của chàng. Trong nghệ thuật ca múa, nấu rượu, hòa men ngây ngất , say sưa giữa rượu, ca múa, thưởng thức, giao hòa v.v.,  các nàng đạt đỉnh ngất ngây, hoan lạc, say sưa. Lễ hội Hi lạp cúng tế Điônítsiốt từ đó , qua quan niệm về Điônísiốt, mang khuynh hướng mê say, tràn bờ, thoát lệ và là lực đẩy nền tảng cho sự phát triển của nghệ thuật sân khấu. Sau này có những nơi thành lập các "giáo phái", dòng "đạo", dòng nghệ thuật ( cults with rituals , theatrical groups) lấy Dionysus làm tổ sư.


Theo truyền thuyết Hi lạp, và sách vở, ông là tiêu biểu cho những biểu cảm vượt quá giới hạn; sự say sưa, đam mê tràn bờ, ( intoxication, passion beyond limit) đôi khi hoang loạn ( ecstacy, madness)

Ông là biểu tượng của mùa gặt nho, rượu nho, và nghệ thuật sáng tạo mang nhiều tích cách đam mê, say sưa. Ngược lại với thần Apollo, người tượng trưng cho Thi ca, Âm nhạc, và nghệ thuật trong cung cách tiết độ, tỉnh táo ( trong điều tiết của Lý trí). Tuy không nổi tiếng và được nghiên cứu, học hỏi tính cách bằng ông anh cùng cha khác mẹ là Apollo, người ta vẫn luôn nhớ đến ông khi muốn trình diễn một tính chất, tính cách say sưa vượt bờ, một hoan lạc, thống khoái đậm đầy, trở về gần với bản năng, thoát kềm tỏa của đạo lý, lệ luật. 

Theo triết gia F. Nietzsche, Dionysus gần gũi với tâm tình, với cõi “lục dục thất tình” nhân thế nhiều hơn trong tính cách đam mê, say sưa, có những khi “mãnh liệt”, tràn bờ , so với thần Apollo cũng là một thần chủ về văn chương, nghệ thuật, nơi sự ngự trị của Lý trí, suy xét, kềm chế nhiều hơn.
Với Nietzsche, ông là kẻ nghe được thổn thức của bờ tim con người, người thổi những vũ điệu loạn cuồng vào đam mê, vào sáng tạo nghệ thuật, người thể hiện Ý chí tự do tuyệt vời ( the passionate, exuberant, vibrant senses of the Will to power)




Vì rất giống tâm hồn con người với những hỉ nộ ái ố ai cụ lạc của nó, nên cõi thần thiên, thần thoại của Hi lạp một phương xưa cũ  ban sơ cổ lục, huyền hoặc lung linh mang nhiều dấu vẻ như  phóng ảnh của tâm hồn con người lên một cõi Tâm linh, cõi Sáng tạo tâm linh, cõi Thần, cõi Trời

Nóng giận, mừng vui, đau đớn, thảm sầu, yêu thương, ghét bỏ v.v. , và cũng bực mình, gắt gỏng hay khoái trí, hoan hỉ. Lắm khi các thần cũng có biểu lộ, phản ứng, ứng xử giống con người.

Ví dụ : trong trường thiên anh hùng ca Iliad của thi hào Homer, ta thấy

a) Hera : Do hay ghen và tức vì thói trăng hoa của đế Zeus, nên Hoàng hậu Hera,  khi thấy Thetis nói chuyện và cầu khẩn Zeus giúp nguyên soái Achilles lấy lại được nàng Breisis khuynh quốc khuynh thành, bà đã chất vấn : Sao Ngài toan tính kế hoạch thế nào mà không cho tôi biết qua một chút, chỉ toàn làm sau lưng em ?

b) Zeus : Khi ấy Zeus bèn la mắng vợ Hera: Nương nương đừng nhiều chuyện, cái gì cũng xía vô. Cái gì tôi có thể cho bà biết thì bà là người đầu tiên được biết, đừng dò la, “moi móc” như thế về mọi chuyện.

c) Aphrodite: Nữ thần Venus này( tên gọi Aphrodite ở La mã) vì lòng kiêu hãnh, tự tôn, tự ái với nhan sắc của mình ( y như một người đẹp trần gian)  nên đã hứa sẽ giúp hoàng tử đẹp trai mà nhát gan Paris của thành Troy— trong một bữa tiệc trao giải tuyệt sắc giai nhân— rằng Nàng sẽ giúp Paris chiếm được một giai nhân cực đẹp khác là Helen, vốn cũng là con của Zeus với Bà Leda , trong một cuộc tình ngoại hôn, nếu Paris bầu Aphrodite là người đẹp nhất trong 3 nữ thần: Hera, Aphrodite và Athena.  Chỉ vì tâm tình  như vậy, Aphrodite đã cứu sống Paris giai đoạn đầu.


Ta có thể thấy, các thần Hi lạp có vẻ ít kềm chế, thu thúc; phản ứng bộc lộ nhiều góc cạnh giống con người,  

Theo một ít tác giả— phân tích theo các yếu tố tâm lý học ngày nay : thế giới sáng tạo của Hi lạp cổ xưa mang sương bóng, hình hài, tâm thức trần gian hệ lụy, đó có thể xem như một “nối dài” của cõi người lên phía bên trên. Và nó “xảy ra” như thế cũng là một cách để người Hi lạp xưa lý giải, và tìm hiểu về chính tâm thức mình, cộng đồng mình.


Vì tính cách rất gần gũi và bộc bạch tâm hồn, tâm lý, tâm tư con người, không gò bó, “cường điệu/giả tạo’ , khác với cõi thần tiên trong  thần học Bà la môn giáo, Thiên chúa giáo , hay các tôn giáo độc thần tương tự, nên đây cũng là lý do có thể giải thích vì sao Nietzsche yêu thích thần thoại, cổ lục Hi lạp. Đặc biệt các nét cá tính được thể hiện qua “nhân cách” thần Dionysus.
Với Nietzsche, tính cách say sưa, vượt bờ, thoát luật, có khi hỗn độn, hoang mang , phi lý của Dionysus, trong sử thi, nghệ thuật âm nhạc hay kịch nghệ Hi lạp hợp với con người mạnh mẽ của ông, cũng như Ý chí tự do (the grand, vibrant Will)  đẩy  tới âm vực cuối cùng trên lối về thênh thang của Gió trời lồng lộng hay “ Trường khiếu  nhất thanh hàn thái hư”. Vì thế, có những lúc ông nhận là đồ đệ của ( trường phái ) Dionysus, hay chính hiện thân của Dionysus, vào lúc cuối đời.

Nietzsche viết :
The Dionysus of the Greeks [was] the religious affirmation of life, life whole and not denied or in part...” ( Philosophical Writings : F. Nietzsche – R. Grimm, ed, 1997)
dịch:
Thần Dionysus của người Hi lạp là sự khẳng định sống viên mãn theo nghĩa tôn gíáo, một đời sống  tròn đầy và không bị từ chối, hay chỉ được cho phép một phần…


Tâm Nguyên

Jan 2017




Saturday, January 21, 2017

Lặng nghe lời nói như ru...

                           *

Hai câu thơ tuyt vi ca c T Như
dch sang tiếng Anh

(Two wonderful verses of the Poet Nguyn Du (1766-1820) in English translation)

"Lng nghe li nói như ru
Chiu xuân d khiến nét thu ngi ngùng"

All silent, she listened to his lullaby words
Spring drifted by, kindling
her beautiful autumn(like) face in shyness (*)
(CH)

C g/sư Huỳnh Sanh Thông đ/hc Yale dch trong “The Tale of Kieu” là :

All hushed, she drank in the words whose music lulled—
Love stirred the autumn calm of her fair eyes

----


 Notes :

* “shyness” here can only "gauge" and interpret “ngi ngùng” partially. Because of the complex, interweaving and somewhat-open-to-discussion meaning of the word . At the same time translation/transliteration brevity/balance which has “issues” related to syllable, meter matters does not welcome, or ”permit” lengthy translation, where clarification and explanation should be left in notes. The idea behind “ngi ngùng” can be explained as “ becoming gradually more shy, at the same time this “shyness” augments the attractiveness of Thúy Kiu”, the main character in The Tale of Kiu ( Truyn Kiu ).
Another issue open to discussion is : where can this “ngi ngùng” be observed ? The late Yale Prof. Huỳnh Sanh Thông sees it as the “shyness &...” in her eyes. I understand it as the “ shyness & ...” of her whole face. The beauty of autumnal season(s) is compared figuratively and “stirringly/delicately” to the beauty of her face, not just the eyes.


* * Tưởng cũng nên ghi chú : Bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh, The Tale of Kiều, của cố g/s Huỳnh Sanh Thông là một công trình lớn, có nhiều chỗ đáng ca ngợi, những câu dịch xuất sắc. Lòng yêu Truyện Kiều của ông chắc phải lớn, mới gắng sức hai lần, lần đầu 1973, lần hai duyệt sửa vào 1987, danh tác bất hủ, cổ điển này.

Làm sao có thể dịch, trong vài ba câu ngắn ngọn để ngư ời ngoại quốc Anh Mỹ, Pháp, Đức , Ý , Nga, TBNha, Mễ, Thái, Miên, Lào v.v. thẩm thấu đư ợc cái tài tình , tuyệt vời của câu thơ trên, mà ngay cả người Việt, nếu không chịu tìm hiểu, cũng không thể thấy hết cái hay của chúng. Hẳn là phải giải thích về hai câu ấy thêm trong 4,5 trang mới có thể diễn giãi, lột tả được cái đẹp, cái hay của đôi câu ấy. Trước tiên là cái đối của hai chữ xuân và thu, trong nghĩa tu từ, sau đó còn là “chiều xuân” và “nét thu”, ví dụ, tại sao khó có thể nói là ngày xuân, hoặc trời xuân mà đạt tới hiệu quả như mong muốn, và chỉ nét thu là “đắt” ở đây. Ngoài đối chữ, đối ý , hình ảnh và biểu tượng cúa “xuân” và “thu” còn mang trong nó nhiều yếu tố, tố chất của hai mùa làm cho xúc cảm chúng ta khợi dậy, liên tưởng, cảm thông, và có thể so sánh tình ý gom trong dấu thời gian của hai mùa. Dù chỉ là liên tưởng thông qua văn tự thôi— với những người ít để ý đến cái đẹp của hai mùa— họ cũng có thể cảm nhận được phần nào, huống chi đối với những người yêu thiên nhiên, và những liên tưởng, cảm nhận của họ đối với hai mùa. Chưa kể, nếu chúng còn liên hệ với những mối tình xuân, hay tình thu. Về mỹ học Đông phương nét xuân , vẻ thu trong tranh Tàu, trong văn chương/ văn học Việt , Hán gợi lên, chất chứa cho thi sĩ, văn sĩ biết bao tình, ý, biết bao mông lung, cũng như gợi lên bao cảm xúc khi hình ảnh, vẻ đẹp của xuân thu được so sánh, ví von, hàm ẩn dụ với những người đẹp, hoặc với ánh mắt, làn da, các nét gợi cảm trên mặt, trên người, hương phấn, hoặc các ẩn tình trong lòng họ, thể hiện ra trên nét mặt v.v. Nói tóm, khó mà có thể làm người đọc thưởng thức, thẩm thấu được , dù chỉ 6,7 phần 10 cái tinh túy của văn chương cụ Nguyễn Tiên điền, dù đã dùng vài ba trang để giải thích thêm khi ghi chú, nhất là với những câu hoặc đa nghĩa, hoặc nội dung hàm chứa quá tinh tế. Ngược lại, người Việt, người Hàn, Mễ, Tàu, dù giỏi Anh , Pháp , Đức, Ý ngữ v.v. đến đâu cũng có những câu chữ , tình tiết trong văn chương, không thể hiểu, cảm nhận , hay thẩm thấu trọn vẹn được như người bản xứ, nếu không sống trên đất nước họ một thời gian cỡ trên 10 năm. Hoặc thậm chí 30 năm.


----------

Friday, January 13, 2017

Michael Hamburger reads original poems and his translations of German poets.


In San Francisco, 1967


https://diva.sfsu.edu/collections/poetrycenter/bundles/222894


Michael Hamburger: February 15, 1967 (Updated over a year ago)

Cái mới trong ngôn ngữ



"… Nhng con cá ln trong h nước nh này, tt c chúng đu b hn cuc bao ph trong tm lưới này, du chúng có nhy vt lên, chúng vn b hn cuc bao ph nơi đây". 
                                                                      Kinh Brahmajàla

                                                               * *

 Nhìn sâu, không có gì mi trong ngôn ng tâm, ngôn ng thơ ni dung, qua các thi đi, ngoi tr khi có nhng bước nhy vt tâm thc. 

Có nhng hoàn cnh, môi trường sng khác, mi hơn; có nhng quan nim mi hơn trong Triết hc, Văn chương, Tâm lý hc v.v., v Tình yêu, Mt đt, Hnh phúc, Kh đau, Hoan lc , Bay bng hay Hon nn, Trm ut, các Nghch lý và Bi kch v.v., trong nhng thi đi mi hơn, nên cách din đt, biu t có mi hơn. Hoc có nhng biến thái tâm lý trong nhng trường hp chn thương nng n, tuyt vng nhng trường hp quá cá bit, khác bit trong nhng hoàn cnh xã hi hay lch s thê thm, đau thương tt đ, nhưng điu đó đã nm trong mt dng biến thái tâm lý. Và t đó tâm thc— . Ví d khác bit ca con người thế k 21 vi thế k 16, thế k 16 vi thế kỳ 11 v.v. Nhưng tu trung, trong bin tâm thc xoay tròn trong lc dc, tht tình thì qua các thi đi, các sc đ và biến thiên ca tình cm, tâm tình, tâm tư nhân loi cũng không hn có gì mi, ngoài Yêu, Ghét, Thương mến, Hn thù; Cung nhit mê đm, hay Lãnh đm th ơ; Si mê hay Vô cm, Trìu mến, Ưa thích hay Lnh lùng, Chán b, Quyến luyến hay Vô tâm, Đm đà hay Nht nho, Nhung nh , Bâng khuâng , hay Quên lãng, Vô tình; Đăm chiêu, Thơ mng hay Vô d, Trn tri. Hư vô, Điên lon, Ráo honh, Tàn nhn, Khinh bc, hay Thăng hoa, Sáng ng, Bnh bng, Chơi vơi, Tha thiết, cng vi hàng chc cm nhn, sc màu khác, tùy mi thi đim. Nhưng vn không có gì mi trong bin tâm thc nhân loi vài ba ngàn năm nay, tôi cho là thế. Ch có nhng cách th hin, biu l mi hơn, và phn nhiu cũng vì khung cnh, hoàn cnh sng mi hơn, khác đi. Và s ch có cái thc s mi, khi có nhng bước nhy vt ca Tâm.

Ch các cách nói mi các thi đi khác nhau, đìu này là điu các nhà thơ, phê bình văn hc gi “chung, và hn đn ”, là làm mi “ngôn ng thơ”, “ngôn ng văn”, lãnh vc văn hc-văn chương. Nếu gi làm mi ngôn ng thơ là chn cách nói mi, tân kỳ, canh ci, cách tân, biến “o” hơn thì có ý nghĩa hơn. Có th nói vy: Có nhng cái mi trong phương cách tư duy, nơi k thut, ngh thut mô t, sp xếp, din đt, sáng to; nhưng sc màu nơi lãnh đa ca tâm thc, tâm hành— cũng vn bình minh nng la, nng trong; hoàng hôn lưu ly vàng óng ngày tt, hoc xám xt, úa vàng ngày xu— tc cũng không có chi thay đi.

Ví d đi vi Socrates, Aristotle, Sophocles, Shakespeare, Schopenhauer, F. Nietzsche, I. Kant, E. Husserl, Krishnamurti v.v., chng hn, nhng người cn nói v, qung din nhng khám phá, tư tưởng hay khái nim còn rt mi, kỳ l. Hay Paul Celan và nhng người cn tìm ch mi tht chun hay “chính xác”, đ ch nghĩa có th chuyn ti mt ni dung có phn khác, mi hơn (chút). Nhưng th nhưỡng ca các đt tâm y cũng không thc s có gì mi.

Thao thc, tha thiết ca Socrates đ tìm ra con đường th hin s chính xác ca tư tưởng, hay cách thc đ suy tư, bin lun cho đúng đn, hp lý và chính xác hơn. Hoc Sophocles, Shakespeare phi dng lên nhiu bi kch đau đn, tuyt đi thương tâm đ nói lên nhng hoàn cnh con người b đy vào nhng trường hp bi thm, tuyt vng nht. Hoc khao khát ca F. Nietzsche khi mun tìm ti Übermensch (K vượt qua= The Surpassing Man, Superman)

Cũng có phn tương t, nim đau ca Celan có nhng cái (rt) khác bit, và Celan— người yêu ch, thích vic tìm ch đích thc phù hp vi nhng loé sáng tâm thc— đã c gng n lc rt nhiu cho đi tìm ch mi, kết cu mi cho ch [ vi mt ni dung (tâm thc có phn chưa được ch nói đến)] đ din đt. Vì thc s, dù tri nghim tâm thc, cm giác không (hn là) mi đi vi bin tâm thc nhân loi, nhưng có nhng ch trong kho t vng nhân gian chưa có đ có th mô t, din đt, hay thông tri mt cm thc, nhn thc, cm nhn, mt ni đau, bi phn, hay hoan lc v.v. mà nhiu người chưa tri giác, cm nhn, hay biết đến— qua nhng ngôn t mang ni dung, ý nghĩa thông thường. Đây là mt công vic không kém phn khó khăn, nếu ni dung mun nói ti vi tế, tinh vi, hay phc tp, đa din (quá). Làm mi con ch trong trường hp này, không khác gì to nên nhng chương sách mi, vi nhng ni dung mi. Cn nhiu gii thiu, qung din và gii thích, trước khi nhng người khác hiu. 

Thc ra, điu này, ví d cũng có phn ging như hc mt môn hc (có phn khó) mi, hay hc mt ngôn ng lp trình vi tính mi, hc mt môn Toán, Vt lý mi.
Nếu lt ngược vn đ: Nếu ta có mt máy thi gian ( Time machine) đ có th quay v thc s chng kiến, thy được cách người con trai thi tin s như thi Cro-magnon 25 ngàn năm trước, nói tiếng “Yêu” vi người con gái thì chc s thy cc kỳ “mi” và “l

Và ri thì, con người, nhiu khi cũng lp li nhng lm li cũ, ca các thế h đã qua.


CH, 2015