Researchers on Vietnamese Buddhism, starting with Zen Master Thích Nhất Hạnh and Prof. Lê Mạnh Thát ( Ph.D.–UW at Madison, 1974) more than 40 years ago, began to dig more thoroughly and carefully into its past to reassess the significance of the contribution of Thiền (Zen) Master Khương Tăng Hội (康僧會 = Kang Senghui) (1). According to Nhat Hanh and Le Manh Thát, Tăng Hội ( ?-280) was born in Giao Chỉ ( Northern Vietnam around the first century CE ), learned Buddhism in Vietnam, translated some work here, before coming to China to translate more scriptures and spread Buddhism. He was the author and translator of “Commentaries on the Anapanasati Sutta” (An Ban Thủ Ý Kinh Chú = 安般守意經 註 ), Lục Độ Tập Kinh [六度集經= The Six Paramita Virtues Sutra ], Pháp Kính Kinh Tự [法鏡經序 = Preface to The Mirror of Dharma Sutra] etc.
Compared with Bodhidharma, who never set foot to Vietnam , the importance of Master Tăng Hội figures much more to Vietnamese Buddhism.
---
“Đạo Bụt được truyền sang Việt Nam trước. Rồi trong những thế kỷ đầu
của Tây Lịch, đạo Bụt từ Việt Nam lại được truyền sang Trung quốc.
...
“Bài tựa của kinhAn Ban Thủ Ý, theo tài liệu chắc chắn, đã được
viết tại Giao Châu, và nhiều kinh khác mang tên thầy là dịch giả
chắc hẳn cũng đã được dịch tại Giao Châu.
…
“Ông xuất gia tại Giao Châu, học Bụt tại Giao Châu, học tiếng
Phạn tại Giao Châu và dịch kinh ở tại Giao Châu, rồi sau đó đi sang
nước Đông Ngô truyền đạo. Điều đó cũng chứng tỏ rằng trung tâm
Luy Lâu là một trung tâm đạo Bụt phồn thịnh.
“Chúng ta có hai văn kiện cần phải đọc. Một là bài tựa kinh An Ban Thủ Ý.
Hai là một bài viết về thiền gọi là Phương Pháp Đạt Thiền. Cả hai đều do
thầy Tăng Hội viết. Thầy Tăng Hội là tổ sư của thiền học tại Việt
mới đi sang nước Ngô để giảng dạy.
…
“Ở Trung Quốc, vị tổ sư đầu tiên dạy thiền là Bồ Đề Đạt Ma. Tới thế kỷ
thứ VI tổ mới từ Ấn Độ qua Trung Hoa. Tổ Bồ Đề Đạt Ma không trực
tiếp viết xuống những điều tổ dạy. Các tác phẩm như Tuyệt Quán
Luận hay Thiếu Thất Lục Môn đều là do những người khác viết và
gán cho tổ. Trong khi đó ở Giao Châu, vào thế kỷ thứ III, tổ Tăng Hội
đã trực tiếp viết xuống những điều tổ đã dạy. Ta không có lý do gì để
nghi ngờ rằng đó không phải là những điều chính tổ đã dạy. Tổ dạy
như vậy ở tại Giao Châu mà đến khi sang bên nước Ngô, tổ cũng đã
dạy như vậy. Có nhiều chứng cớ cho chúng ta biết rằng kinh Lục Độ
Tập, trong đó có bài Phương Pháp Đạt Thiền đã được sáng tác trước
khi tổ viết bài tựa kinh An Ban Thủ Ý. Trong bài tựa kinh An Ban Thủ
Ý, tư tưởng đại thừa còn thấm sâu hơn và rõ ràng hơn trong bài
Phương Pháp Đạt Thiền. Và chúng ta có những chứng cớ hùng hồn
để biết rằng bài tựa kinh An Ban Thủ Ý này đã viết tại Giao Châu, chớ
không phải là qua tới đất Ngô tổ mới viết. Khi tổ Tăng Hội đi sang
kinh đô của nước Ngô, người ta rất lấy làm ngạc nhiên, vì đây là lần
đầu dân chúng thấy hình dáng của một vị xuất gia.”
Thiền Sư Tăng Hội ( Nhất Hạnh)
**
Hãy trả lại lịch sử những điều của lịch sử
Thiền sư Khương Tăng Hội, theo Thầy Nhất Hạnh và Gs/tsĩ Lê Mạnh Thát, sinh tại Giao Châu, có mẹ người Việt. Ông dịch nhiều kinh, trong đó, có một phần tại nước ta. Ông đích thực là một Thiền sư, theo nghĩa ông chú trọng nhiều về thực tập việc Thiền định. Và theo nghĩa lịch sử, có thể định nghĩa/định danh Ngài là Sơ Tổ Thiền Việt Nam (2). Việc thiếu xót của các chùa VN, là đặt địa vị Thiền sư Bồ Đề Đạt Ma quá quan trọng trong khi đó cho tới cuối thế kỷ 20, mới có những khám phá và nhận thức ra công trạng của Tổ Tăng Hội, là một thiếu xót rất đáng tiếc trong hàng nghìn năm. Đại loại, có thể dùng hình ảnh này để ví : Ông nội không thờ, đi thờ ông chú hàng xóm. Trong khi đó, công trạng của Ngài KTH đối với Phật giáo Việt nam nói chung, Thiền học VN nói riêng rất lớn. Ngay cả công lao của ngài đối với việc phiên dịch và dạy Thiền ở Trung quốc, ít nhất là qua sách vở để lại, cũng vượt trội hơn đại sư BĐĐạt Ma. Không rõ từ bao gìờ hình ảnh, ấn tượng của ngài BĐ Đạt Ma đã in ấn khá mạnh mẽ trong lòng thiền giả, thiền sinh VN, mà trong các chùa thường có tượng của ông, hoặc trong nhà tổ nơi thờ các vị khai sơn, khai môn, hay trụ trì, hoặc một gian thờ nào đó, dù rằng, theo một ít khảo cứu gần đây cuối thế kỷ 20, khuôn mặt Phật giáo VN, hoặc truyền thống Thiền— như một tông phái— tức Thiền tông, đã được khảo cứu, truy tầm, đặt vấn đề lại. (3) Và cả lịch sử mang quá nhiều huyền thoại về BĐĐM cũng được khảo vấn, đánh giá lại (4).
Dĩ nhiên, chúng ta ai truy vấn kỹ, và hiểu phần nào về tính cách phúng tụng, tô vẽ, ca ngợi của người Tàu cũng có thể cảm nhận được cách thức “đưa lên mây” những nhân vật lịch sử của họ, ví dụ như Khổng tử, Lão tử, Trang tử, hay vua Hán Lưu Bị, Quan Vân Trường, Khổng Minh, vua Đường Lý Thế Dân, hay Lý Bạch, Tô Đông Pha v.v... Điều các thiền giả, thiền sinh người Việt thường không luu tâm về hình tượng-huyền thoại một nhân vật đã xa trong quá khứ là việc đặt ra câu hỏi về sự đáng tin cậy của sử liệu, cũng như quan niệm viết sử, cũng như những “ý định” thêu dệt, hoặc sự phóng bút quá đáng của trí tưởng của người viết sử, hay dật sử, dã sử, huyền thoại, truyện, ký. Đó là khía cạnh môn Sử học ngày nay có lúc bàn đến một góc của việc đọc, hiểu và đánh giá một góc của sử ký mang tính cách khoa học cần có. Vì thế , rất nhiều điều trong lịch sử-huyền thoại BĐĐM trong Truyền Đăng Lục hay Cao Tăng Truyện v.v. cần phải được nghiên cứu , đánh giá lại, nhất là duới ngòi bút “chế tác”của các “sử gia”, văn gia, cổ lục, truyền kỳ trứ tác nhân huyễn hoặc Tàu.
Bồ đề Đạt ma với phong cách dị thường, khí vũ phi phàm, cách hành xử lạ lùng. ngôn ngữ ngắn gọn, mạnh mẽ, cách dạy người kiến tính cũng độc đặc v.v., trong tâm thức hành giả, thiền gia Việt có những nét tượng tự như hiện tượng văn hóa “sính” một nét văn hóa, một sản phẩm lạ lẫm, quyến rũ nào đó, ví như Nho sĩ, người học chữ Hán xưa nay sính thơ Đường, Tống, hoặc từ thế kỷ 19, thì sính thơ Tây, tranh Tây, hoặc cũng có đôi khi có thể ví như thanh thiếu niên sính nhạc ngoại như nhạc Rock &Roll, Blue hoặc Pop, hay sinh viên “mê” văn chương Âu Mỹ các thời đại. Việc yêu mến, kính trọng tư cách, phong thái một nhân vật trong lịch sử, dã sử, dật sử, huyền thoại là việc bình thường trong giao lưu văn hóa, trên con đường tiến đến Chân-Thiện-Mỹ của con người, nhưng xưng tụng quá đáng, ngô nghê trong nhận thức, không phân biệt được giữa huyền thoại, chuyện truyền tụng, dã sử và lịch sử, cùng những nghi vấn đầy dẫy bao quanh một nhân vật là một hành động đáng tiếc.
Đìều cần thấy là phải xé toạc những màn sương khói lù mù bao phủ chung quanh để tìm ra chân tướng công lao của những vị đã có công lớn với Phật giáo Việt nam.
CH
-----
REF
(2) Gọi Tổ Tăng Hội là Sơ tổ Thiền Việt nam, nhưng không gọi là Sơ tổ Thiền tông VN, vì vào thời ngài, cả ở Viet Nam và Tq, chưa có một tông phái gọi là Thiền tông, tuy sách Tàu sau này trong các đăng lục, truyện ký Tàu, cứ liên kết, sâu chuỗi bừa chuyện Đức Phật TCMâu Ni truyền tâm ấn cho Tổ sư Ma ha Ca Diếp, và lập bừa một truyền thống thiền, khiến những người học sau này không rành lịch sử Phật giáo cứ mãi tưởng lầm là Thiền tông đã có từ thời Đức Phật TCMâu Ni. Tức là có việc học và hành, tập Thiền ở VN thời Đại sư Tăng Hội, với trung tâm Phật giáo Luy Lâu đã có mặt từ thế kỷ thứ nhất TL , nhưng chưa có tông phái gì hết, ngay cả từ thời BĐĐạtMa khoảng hơn 200 năm sau. Chỉ là sự lập hệ, lập đồ biểu, chế tác lịch sử của Thiền Trung hoa.
(3) ví dụ trong : Zen in Medieval Vietnam . Cuong Nguyen. Hawaii . Univ. of Hawaii Press. 1997
(4) trong đó có P. Pelliot, Edward Conze
“Several scholars have suggested that the composed image of Bodhidharma depended on the combination of supposed historical information on various historical figures over several centuries.[66] Bodhidharma as a historical person may even never have actually existed.[67] “ (Wikipedia)
No comments:
Post a Comment