Tôi không thuộc thế hệ được học Gs/Nt Vũ Hoàng Chương tại trường Tr/học Chu Văn An Sàigòn. Và vốn là dân ban Toán, nên chỉ từ đệ tứ , đệ tam tụi tôi mới để ý đến Việt văn hơn, sau khi đã đuợc dạy truyện Kiều. Lúc đó là lúc tụi tôi lâu lâu lại thấy bóng dáng thầy trong sân trường trong mấy phút ngắn. Thầy người dong dỏng, không cao lắm, và thường ăn mặc rất chỉnh tề, trong veston, không gài nút; thỉnh thoảng thấy đội mũ như mũ dạ rộng vành. Nhìn thầy, ai cũng có thể nhận ra phong cách thi nhân— dáng gầy tiêu dao giữa hồng trần, và óc thì như vân du hồng ngoại thi biên, hay cổ kim hoài xứ.
Có một ít bài thơ của thầy tôi thích, và có những câu nổi tiếng của ông thuộc nằm lòng, như không ít người Việt ưa văn chương thời 1950, 60, 70 thường nhớ, ví như :
“Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Ðời vắng em rồi say với ai”
“Ta đợi em từ ba mươi năm
Uổng hoa phong nhụy, hoài trăng rằm”
“Trăng của nhà ai trăng một phương Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường Ừ, đêm tháng sáu mười hai nhỉ Tố của Hoàng ơi! hỡi nhớ thương!
“Là thế, là thôi, là thế đó Mười năm thôi nhé mộng tan tành Mười năm trăng cũ ai nguyền ước! Tố của Hoàng ơi! Tố của anh”
“Lửa, lửa cháy ngất tòa sen, Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành thơ, quỳ cả xuống Hai vầng sáng rưng rưng Đông Tây nhòa lệ ngọc Chắp tay đón một mặt trời mới mọc Ánh Đạo vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên”
“Bốn trời sương lạnh
Đường xanh bóng trăng
Lửa đào lung lay phất phới
Thi Nhân ôi xin dừng bước lại
Đây Hàng Châu thường mơ ước đêm Hoa Đăng
Đêm Hoa Đăng đường xanh bóng trăng
“Đoàn người ấy mọc lên trong sa mạc,
Cả một rừng gươm trên lưng ngựa trường thành
Đoàn quân ấy từ phương Đông xuất phát,
Lũ con hoang bất trị của trời xanh”
...
Thuở cách đây hơn 30 năm, tuy có những câu, mấy bài tôi rất yêu của thơ thầy, nhưng tôi vẫn không thấy gần gũi nhiều với cõi thơ ấy. Với tôi, thơ VHC hơi đài các, phong vận, điển chương quá.
Có thể là vì cách xa thầy 2 thế hệ, và cũng có thể vì phong cách thơ cùng vài lý do khác.
Mấy năm nay thì khác, sau khi đọc lại thơ thầy nhiều hơn, và sau khi đọc lại “Lửa Từ Bi”, “Bài Ca Bình Bắc”, “ Bài Ca Sát Thát” và những bài khác, được biết có những tập thơ của ông mà mình chưa biết tới.
Lửa Từ Bi, Bài Ca Sát Thát là tuyệt tác, cũng như “Ta Về” của nhà thơ Tô Thùy Yên là một tuyệt tác khác.
Và với “Lửa Từ Bi”. “Bài Ca Bình Bắc”, “ Bài Ca Sát Thát” cùng với di sản thơ đồ sộ của ông, ta có thể thấy bóng dáng của một thi bá, như nhà văn Mai Thảo đã có lần nhận xét.
Hãy nói tới một chút về bài “Bài Ca Sát Thát”
Ngay cái tựa— với chữ Sát Thát— thử nêu vài giả thuyết, hay nhận định cho trí tưởng đối thoại với tình thơ, chữ nghĩa thơ.
Tại sao Sát Thát , mà không là Diệt Nguyên , nếu Giết Nguyên không “mặn”, không đắt , vì sau âm bằng “ca”, âm của phù khứ thanh “giết” không tạo được sự hài hòa, êm tai như chữ “diệt”. Mặt khác, “Bài Ca Diệt Nguyên” đồng nghĩa với “Bài Ca Sát Thát”
Vài ba lý do, giả thuyết, nhận xét :
1. Nhà thơ của chúng ta rất thuộc sử, nhất là sử giai đoạn đó và biết rõ là là dân ta thời đó ra trận để cứu nước, lòng ôm ý chí phải trừ diệt hết quân xăm lăng hết sức hung hãn, hùng mạnh đã viễn chinh khuất phục khắp Á, Âu, đến ngọn cỏ còn không mọc nổi, nên đã đều xăm vào cánh tay hai chữ Sát Thát để cùng nhau nói lên ý chí quyết thắng, để bảo vệ non sông, đất nước thân yêu tiền nhân bao công khó, hi sinh để lại.
2. Trong ngữ âm của chữ Sát Thát, hình dung và tưởng tượng ra, có tiếng gió rít, hét gọi xung phong, tiếng guơm đao chát chúa < sát > , thề phải tận diệt , thể hiện ý chí lớn lao phải bảo vệ nói giống, non sông, dù có da ngựa bọc thây và phải tiến lên chiến trường đẫm máu nhất. Không phải vì nhà thơ chúng ta “phút ấy” trở nên hung hãn, mà vì chữ và âm đó dội lên tâm thức chống giặc, diệt giặc dù phải hi sinh cỡ nào cũng phải quyết đấu, quyết chiến để bảo tồn nòi giống, non sông. Nhà thơ bước vào lịch sử bằng trí tưởng, thể nhập như một người dân hay binh tướng thời đó để nghe và hiển lộ.
3. Ngôn ngữ của tâm thơ ông hòa trộn vào lịch sử vút lên, bộc phát, bỏ hết cách điệu thể hiện ý, tứ, thi pháp, câu cú, thi ảnh, biểu tượng bình thường của những bài thơ khác.
Ta đọc :
"Đoàn người ấy mọc lên trong sa mạc,
Cả một rừng gươm trên lưng ngựa trường thành
Đoàn quân ấy từ phương Đông xuất phát,
Lũ con hoang bất trị của trời xanh"
“mọc lên từ sa mạc”, “cả một rừng guơm trên lưng ngựa trường thành”
hình ảnh sống động, một cách thái mãnh liệt của “thi trung hữu họa”; hay nói “sắc” hơn , đọc thơ có thể thấy vó, thân ngựa phi rầm rập tràn đi, tung bụi khắp biên cương, thành quách; gươm tuốt sáng lóa ngàn lưỡi.
“lũ con hoang bất trị của trời xanh” :
như thấy ra vó ngựa, sự dẫm đạp , tàn phá lên tất cả thanh bình của khắp các vùng đất khi “lũ con hoang” vốn dòng Mông cổ này buông thả ý chí và kềm chế mà đi bách hại các xứ sở, tàn phá con người, màu xanh cây lá, chim thú trong sự bất trị của chúng.
Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành,
Biển ngập máu còn mang tên Hồng Hải
Cờ phất Âu châu,
Ngựa giẫm tới đâu là xương phơi thịt vãi
Biển đeo tang còn Hắc Hải ghi danh...
Như ngọn cuồng lưu, như cơn bão cát
Từ Mông Cổ, Tân Cương đến Ba Tư Bạch Đát,
Trở về Hoa Hạ, Yên kinh
Lũ Thiên triều từng Bắc chiến, Tây chinh
Lẽ nào để một phương không xéo nát!
Trời Nam riêng cõi thanh bình
Lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Đát
Ba chân trời Đại Lục đứng chênh vênh!
Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành;
Ngựa giẫm tới đâu là xương phơi thịt vãi"
Vó ngựa kinh hoàng kinh thiên động địa được vẽ ra, nhắc lại
Biển ngập máu còn mang tên Hồng Hải ; biển đeo tang còn Hắc Hải ghi danh...
Biển ngập máu khắp Á, Âu, Trung đông; đeo tang cho cư dân các miền bao quanh
Như cuồng lưu, như bão cát, những đứa con bất trị của trời xanh , bằng vó ngựa viễn chinh, kỵ binh bách chiến bách thắng, cung tên tràn ngập, đao kiếm dư thừa chinh phục khắp cõi Á, Âu , Trung đông, mấp mé châu Phi, bên bờ Địa trung hải, thành lập Đế quốc Mông cổ qua 4, 5 triều đại từ Thành Cát Tư Hãn trở xuống đến Hốt Tất Liệt.
Cực giỏi và thiện nghệ trong nghề bắn cung, có người vừa phi ngưa vừa bắn ngược vào mục tiêu được, binh tướng Nguyên Mông đã chiến thắng biết bao đội quân các nước, và làm mưa làm gió khắp Âu Á trong gần 100 năm
Có thêm chi tiết, sử gia sau này tiết lộ : người Mông cổ đã biết làm thuốc nổ và bắn đạn lửa. Họ cũng biết đánh đòn chiến tranh tâm lý; giao liên, truyền thông giỏi, cũng như huấn luyện thành thục binh đội về khả năng tác chiến. Tướng thì hiểu biết chiến thuật, chiến lược.
Hay đâu: Bắc phương vừa quẫy đuôi kình
Rồng thiên sớm đã cựa mình Nam phương
Trần triều hai Thánh Đế
Hưng Đạo một Đại Vương
Hội mở Diên Hồng, đất nước vang rền khí thế,
Hịch truyền Vạn Kiếp, trời mây sáng rực văn chương.
Hay đâu : [ Hay đâu và hai chấm]. Câu chuyển tiếp phá vỡ các phương cách thể hiện khác, trong những bài thơ khác, của mọi người khác, dù cũng mang tính cách tự sự, kể chuyện. Nó mang khí vị và ý thú khác. Khác với ý vị kể chuyện tâm cảm, tình yêu trong các bài thơ trữ tình hay lãng mạn; khác với ý nghĩa kể chuyện, truyền tải trong khung cảnh thơ tôn giáo, hay đạo lý, chẳng hạn. Ví dụ:
Hay đâu hoa nở, trăng tàn
Dẫu tình không đổi, duyên tan theo mùa
hoặc
Hay đâu : Thiên ý bảo ban
Thương người con nhớ hãy mang trong mình
“Hay đâu :” ở đây mang tính cách một sớ trình, tường thuật về công việc, công trạng rạng ngời của Rồng thiêng, Thánh đế và vị Thần Linh sẽ xuất hiện trước Nhân linh và trăm họ cùng lòng liều chết chống giặc, giữ nước.
Hịch truyền Vạn Kiếp, trời mây sáng rực văn chương.
Hịch truyền Vạn Kiếp cũng là văn chương , nhưng là văn chương Đại hùng thi, như văn chương của Bình Ngô Đại Cáo.
Giống Hồng Lạc giữa hai đường sanh tử
Trông lên sợi tóc buộc ngàn cân
Chợt đâu đó xé rèm mây quá khứ,
Xa thăm thẳm mấy ngàn năm Việt sử
Rọi về tia mắt tiền nhân:
Thiêu tàn khoảnh khắc bao do dự
Cả thép vô danh cũng rực ánh gươm thần...
“Rọi về tia mắt tiền nhân : ”
Vâng, xin rọi về tia mắt tiền nhân, đó cũng có thể là tia mắt vua Quang Trung Nguyễn Huệ sau này, khi muốn đòi lại Quảng Đông và Quảng Tây, để “Cả thép vô danh cũng rực ánh gươm thần...”
Chúng ta còn có thể bàn luận, thưởng thức thêm nhiều câu, hoặc đoạn nữa , nhưng xin để mọi người trong tịch lặng, đọc lại sử và để trí tưởng đối thoại, tâm tình với người thơ. Chỉ xin tóm tắt:
Đây cũng giống như một thiên Anh hùng ca ngắn, người Hi lạp và Tây phương hay gọi thế , trong thể loại epic poetry, như Iliad của thi hào Homer là một trường ca/trường thi anh hùng. Tuy cũng có những điểm khác nhau, nhưng giống nhau trong ý nghĩa nổi bật nhất. Khác với những bài thơ khác của Nhà thơ Vũ Hoàng Chương, “Bài Ca Sát Thát” bộc phát, bộc phá, và truyền đi ngôn ngữ Tâm— trong hòa nhập và thể hiện hồn lịch sử Việt trong một giai đoạn— rất nhập thần.
Tiếng và Lời rất đắt, rất tuyệt, theo tôi.
Khí thơ và Thần thơ, gọi chung thần-khí thơ, theo quan niệm Đông phương đạt đến đỉnh nó muốn vươn tới trong Hương Sắc và Khí Vị nó muốn bay đến.
Và, như một chú thích, để người đọc có thể nghiên cứu, bàn luận tiếp về thơ Vũ Hoàng Chương: Ông vốn, như và cũng khác các English bard ( người kể chuyện/ thi sĩ hát thơ Ăng lê), là một người hát-thơ/kể chuyện bằng thơ, viết kịch thơ, cũng như Hoàng Cầm, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Yến Lan, và đã viết 3 vở là Trương Chi, Vân Muội, Hồng Điệp. Ông là người rành nhiều, và ưa dùng điển tích văn chương. Âm điệu trong thơ ông phong phú.
Mùa xuân gần cuối
Vẫn sóng bay hoa
Ngang trời động sấm tháng ba,
Dọc sông chớp giật, sáng loà gươm đao...
CH
Tháng Chạp, Ất Mùi 2015