Trong Tâm Kinh Bát Nhã , do ngài Huyền Trang dịch, cũng như các ngài Cưu Ma La Thập, Bát Nhã, Pháp Nguyệt, Pháp Thành v.v., với đại đồng tiểu dị với dịch phẩm của Huyền Trang có hai chữ “Thị cố” là hai chữ rất quan trọng mà thường chúng ta đã không để ý tới , để có thể hiểu hết sức tường tận về ý nghĩa của chúng, và từ đó đã có thể không hiểu cực kỳ đích xác vai trò của chúng trong việc làm sáng tỏ “như trăng rằm” việc lĩnh hội thấu đáo điều được các dịch giả/pháp sư đã nói trên trong việc chỉ dẫn hết sức kỹ càng cho chúng ta, soi rõ điều các ngài muốn nói, muốn chỉ , muốn định cực kỳ cẩn thận cho chúng ta về bản chất chữ Không, Không tướng và Không tánh.
Tôi đọc lại và truy cứu kỹ thì thấy cần làm sáng tỏ việc này.
Hầu hết các bản dịch Tâm Kinh Bát Nhã đã dịch từ Hán-Việt sang tiếng Việt chỉ dịch chữ “Thị cố” là “Cho nên”, mà “cho nên”—
nếu nhìn từ góc độ chỉ cần phải dịch cho gọn gàng thì trong nghĩa chữ cũng có nói lên gần như “vì thế cho nên” , hay như thế cho nên, nếu suy nghĩ kỹ. Nhưng…
Nhưng khi kiểm tra lại— nếu nhìn từ góc độ phải làm sáng tỏ, hết sức sáng tỏ nghĩa và lý của kinh văn, nhất là một kinh văn cực quan trọng, một cốt lõi ngắn gọn nhưng là Ngọn đèn Trí Tuệ Thập phương Vô hạn Quang minh khai ngộ chi đăng, một kinh văn thậm tinh yếu cho Tri kiến giải thoát— thì là thiếu xót rất cần phải đưa ra luận bàn, làm cho hết sức sáng tỏ cho nghĩa lý văn kinh được tận tỏ tường.
Đọc lại kỹ lưỡng ta thấy cổ đức, luận sư, vì lòng Từ Bi, đã hết sức cố gắng chỉ bảo hết sức cẩn thận, khi dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ từ Cưu Ma La Thập, Huyền Trang, Pháp Nguyệt, Bát Nhã, Lợi Ngôn, đến Pháp Thành, Thi Hộ.
Trong khởi đầu từ câu hai; "Xá Lợi tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị.", các ngài đã dịch và chỉ rõ : Tướng, tánh của tất cả các pháp thuộc về nghĩa Sắc ( tức là nằm trong phạm trù được xem như là Sắc) hay nghĩa Không ( phạm trù được xem như là Không) không khác nhau, và còn giống như nhau nữa. Và đối với Thọ , Tưởng, Hành , Thức cũng vậy. Bởi lẽ ( by the reason of, on the ground that) chúng hiển lộ, hiện hữu, rồi biến đổi, rồi tàn hoại giống như nhau trong Tâm-Thức chúng ta. Chúng đến do các hợp duyên tựu lại làm cho chúng xuất hiện, sau đó chuyển đổi; rã duyên, rối biến mất. Vì tính cách hiển lộ, biến đổi, rồi biến mất— được nhận thấy qua thiền quán và suy nghiệm— hành giả có thể nhận chân được chúng đích thật không có tự tánh, không nắm bắt được, không dùng ý niệm để diễn tả bằng ngôn thuyết được, không khái niệm hóa được; tất cả đều là giả danh ; chỉ có thể biết bằng kinh nghiệm thiền quán trước tiên , sau đó kỉểm nghiệm bằng tri thức , trầm tư, suy nghiệm , rồi lại quán chiếu lại để nhận chân chân lý, nhận chân chân diện mục của thực tại. Như Bồ tát Long Thọ viết :
“Ngôn ngữ đạo đoạn
Tâm hành diệt ngật
Bất sinh, bất diệt
Pháp như Niết bàn”
Bằng kinh nghiệm thiền quán, bằng suy tư rốt ráo dẩy dặn qua bao năm dài, các ngài hiểu rõ về Thực tại, và chỉ có thể phát ngôn “ Chúng là như thế”, hay “Nó là như thế”, cái mà nhà Phật hay gọi là Chân Như, là Thực tại tối hậu, vượt thoát mọi nắm bắt của ngôn ngữ, khái niệm, tư tưởng.
Vì vậy, sau khi đã tuyên thuyết :
“Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”
Các ngài xác định lại :
Thị cố Không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
tức là : chính vì hình tướng, thể tánh ( hay Không tướng, Không tánh) của chúng như thế đó : không thể nắm bắt, định hình, định tính, định nghĩa gì được, cho nên y cứ vào lý do, nguyên nhân đó, sự thật đó nên trong Không tướng, Không tánh : không có sắc, thọ , tưởng, hành thức v.v. cho tới không có Trí và Đắc. Do đó mới có chữ “THỊ CỐ” , tức : như thế cho nên, nghĩa là các ngài mở rộng quán sát về Sắc , Thọ, Tưởng, Hành , Thức cho tới Trí và Đắc và vẫn cho chúng ta biết rất rõ ràng cẩn thận, hết sức minh bạch, thấu đáo, tường tận bằng cách nhấn mạnh với chữ “thị” (như thế ấy ) [ thay vì viết, thí dụ như : Cố tri Không trung , vô sắc, thọ, tưởng…như sau đó mấy hàng] rằng : Trong Tánh Không, không có gì có thể gọi là Sắc, Thọ, Tưởng nãi chí Trí và Đắc. Không thành lập được làm sao có thể gọi là Có ? Và nguyên do, lý do, căn cứ để bảo rằng chúng không có ( một loạt Vô) là vì y cứ trên chính bản chất, thể tính của chúng như đã nói xác định ở 2 câu trên :
“Xá Lợi tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc ; Thọ, Tưởng, Hành Thức diệc phục như thị."
“Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”
Đó là lý do tại sao có sự hiện diện của hai chữ “ thị cố” [ thị = ấy, thế; cố = 1) cho nên ; 2) sự , việc, nguyên nhân, lý do]. Vì vậy thị cố nghĩa là như thế cho nên ; vì lý do, nguyên nhân đó. Y cứ trên lý do, nguyên nhân đó ( tức thể tánh chúng như đã nói trên), xác định lại : Trong Không tính, nơi Không tướng [ tính , tướng sách Tàu dùng chung và thay đổi cho nhau để chỉ bản chất của tất cả pháp trong trường hợp này; đó là một điều dở, khiếm khuyết, nhưng nếu quán sát tới nơi tới chốn, thì thấy cũng chấp nhận được ] không có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành , Thức cho tới không có Trí và Đắc.
Rất tình cờ , chữ “therefore” ( vì thế cho nên) trong Anh ngữ lại diễn đạt rất chính xác chữ “thị cố”. Đây là điều hết sức lý thú, khi tôi kiểm nghiệm lại ý nghĩa của chữ “therefore” và thấy rằng nó có nghĩa rõ là : vì lý do ấy (for that reason ), hoặc bởi vì cái đó, ( because of that) , do đó ; ngoài giải thích ngắn gọn hơn là consequently= kết quả của nhân ấy là . Học giả về đạo Phật và Sanskrit Edward Conze dựa trên bản Phạn ngữ đã dịch chữ tasmac tiếng Bắc Phạn trong câu “Tasmac Chariputra sunyatayam na rupam…” , tức “Thị cố Không trung, vô sắc…” thành : “Therefore, O Sariputra, in emptiness there is no form…” rất chuẩn xác.
Trong khi tra cứu tôi cũng muốn biết đích xác chữ Sanskrit “tasmac” có nghĩa là gì nên tra lục và tìm thấy câu trả lời trong quyển The Heart Sutra : A Comprehensive Guide to The Classic of Mahayana của tác giả Kazuaki Tanahashi như trong hình dưới đây. Tác giả cũng xác định “tasmac” là “because of that”, hay “ therefore”, và điều tác giả khẳng định về hai chữ “是” (thị) và “故” cũng giống như tìm tòi của tôi. Thật là thú vị khi tra vấn và thấy kết quả thích hợp như trên.
Tóm lại, nếu đọc thật kỹ lưỡng hai chữ “thị cố” ấy, chúng ta có thể thấy được công phu và sự cẩn trọng của các cổ đức, luận sư như đã nói trên, để thấy các ngài đã vì Phật tử, học nhân, và đạo lý như thế nào.
Bản dịch của Ngài CM La Thập :
Bản dịch của Ngài CM La Thập :
摩訶般若波羅蜜大明咒經
(Taishō No 250)
姚秦天竺三藏鳩摩羅什譯
觀世音菩薩。行深般若波羅蜜時。照見五陰空。度一切苦厄。舍利弗色空故無惱壞相。受空故無受相。想空故無知相。行空故無作 相。識空故無覺相。何以故。舍利弗非色異空。非空異色。色即是空。空即是色。受想行識亦如是。舍利弗是諸法空相。不生不滅。不垢不淨。不增不減。是空法。 非過去非未來非現在。是故空中。無色無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界乃至無意識界。無無明亦無無明盡。乃至無老死無老死盡。無苦集滅 道。無智亦無得。以無所得故。菩薩依般若波羅蜜故。心無罣礙。無罣礙故無有恐怖。離一切顛倒夢想苦惱。究竟涅槃。三世諸佛依般若波羅蜜故。得阿耨多羅三藐 三菩提。故知般若波羅蜜是大明咒。無上明咒。無等等明咒。能除一切苦真實不虛故說般若波羅蜜咒即說咒曰。 竭帝竭帝 波羅竭帝 波羅僧竭帝 菩提僧莎呵。 摩訶般若波羅蜜大明咒經。
Bản dịch của ngài Pháp Nguyệt :
Chân Huyền
普遍智藏般若波羅蜜多心經
摩竭提國三藏沙門法月重譯
如是我聞。一時佛在王舍大城靈鷲山中。與大比丘眾滿百千人。菩薩摩訶薩七萬七千人俱。其名曰觀世音菩薩。文殊師利菩薩。彌勒菩薩等。以為上首。皆得三昧總持。住不思議解脫
爾時觀自在菩薩摩訶薩在彼敷坐。於其眾中即從座起。詣世尊所。面向合掌曲躬恭敬。瞻仰尊顏而白佛言。世尊。我欲於此會中。 說諸菩薩普遍智藏般若波羅蜜多心。唯願世尊聽我所說。為諸菩薩宣祕法要。爾時世尊以妙梵音。告觀自在菩薩摩訶薩言。善哉善哉具大悲者。聽汝所說。與諸眾生 作大光明。於是觀自在菩薩摩訶薩蒙佛聽許。佛所護念。入於慧光三昧正受。入此定已。以三昧力行深般若波羅蜜多時。照見五蘊自性皆空。彼了知五蘊自性皆空。 從彼三昧安詳而起。即告慧命舍利弗言。善男子。菩薩有般若波羅蜜多心。名普遍智藏。汝今諦聽善思念之。吾當為汝分別解說。作是語已。慧命舍利弗白觀自在菩 薩摩訶薩言。唯大淨者。願為說之。今正是時。於斯告舍利弗。諸菩薩摩訶薩應如是學。色性是空空性是色。色不異空空不異色。色即是空空即是色。受想行識亦復 如是。識性是空空性是識。識不異空空不異識。識即是空空即是識。舍利子。是諸法空相。不生不滅不垢不淨不增不減。是故空中無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身 意。無色聲香味觸法。無眼界乃至無意識界。無無明亦無無明盡。乃至無老死亦無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵依般若波羅蜜多故心無 罣礙。無罣礙故無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛依般若波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多是大神咒。是大明咒。是無上咒。是 無等等咒。能除一切苦真實不虛。故說般若波羅蜜多咒。即說咒曰
揭諦揭諦 波羅揭諦 波羅僧揭諦 菩提莎婆訶
佛說是經已。諸比丘及菩薩眾。一切世間天人阿脩羅乾闥婆等。聞佛所說皆大歡喜。信受奉行普遍智藏般若波羅蜜多心經。
Chân Huyền
No comments:
Post a Comment