Wednesday, August 24, 2016

Thơ, Luận của Ralph Waldo Emerson


FRiday  JULY 24, 20151216 Reads
Do not go where the path may lead, go instead where there is no path
and leave a trail. “ ( RWE)
*
The poets are thus liberating gods. The ancient British bards had for the title of their
order, "Those who are free throughout the world." They are free, and they make free…
Thi sĩ, vì thế , là những thần giải phóng. Những thi nhân hát-thơ Anh-cát-lợi xưa được
một danh hiệu, “ Những kẻ Tự do khắp chốn trần thế.” Họ tự do, và họ khiến (người) được tự do…

The Poet ( Thi Sĩ)
A moody child and wildly wise Pursued the game with joyful eyes, Which chose, like meteors, their way, And rived the dark with private ray: They overleapt the horizon's
edge, Searched with Apollo's privilege; Through man, and woman, and sea, and star,
Saw the dance of nature forward far; Through worlds, and races, and terms, and times, Saw musical order, and pairing rhymes.
Olympian bards who sung Divine ideas below, Which always find us young, And always keep us so.
Là đứa trẻ sầu mộng, sáng suốt hoang dã (*)
Rong chơi mê mải trần gian
Lao tới như đường thiên thạch
(Cuồng si) xé toạc bóng đêm
bằng chớp sáng
Phóng vượt các chân trời
Tìm mộng-thực bằng phong cách Apollo
Qua hồn đàn ông, đàn bà, biển và sao
Chiêm ngưỡng vũ điệu thiên nhiên
miền xa thăm thẳm
Qua các vùng trời, chủng tộc, điều kiện, kỷ niên
Thấy tiết tấu cõi này, (du dương) vần điệu
Kẻ hát thơ giữa đời Thần tiên trao gời
Những khúc ca (đẹp tươi) thánh thiện
Khiến ta trẻ mãi
thiên thu.
* dịch với chữ “dã” ( ví dụ, không dịch “hoang toàng”, “hoang dại”) , như thế mới phù hợp với tâm thức Emerson, vốn lấy Thiên nhiên làm trọng trong tinh thần, và thơ, tiểu luận của ông.
---
...
The breadth of the problem is great, for the poet is representative. He stands among
partial men for the complete man, and apprises us not of his wealth, but of the common-wealth. The young man reveres men of genius, because, to speak truly, they are more
himself than he is. They receive of the soul as he also receives, but they more (*). Nature enhances her beauty, to the eyes of loving men, from their belief that the poet is beholding her shows at the same time. He is isolated among his contemporaries, by truth and by his art, but with this consolation in his pursuits, that they will draw all men sooner or later. For all men live by truth, and stand in need of expression. In love, in art, in avarice, in politics, in labor, in games, we study to utter our painful secret. The man is only half himself, the other half is his expression.
Vấn đề lớn rộng, bởi thi sĩ là kẻ đại diện. Ông là tượng nổi của con người toàn diện giữa những con người phiến diện, và nói lên điều này cho ta biết, đây là tài sản chung (của con người) , chứ không phải của riêng ông. Người (thi sĩ) trẻ tôn kính những thiên tài, bởi lẽ những vị này, để diễn đạt chân thực, họ đã thể hiện ( chân tính) nhiều hơn chàng ta. Họ tiếp nhận linh hồn/tâm linh như chàng, nhưng họ “là” , họ thể hiện được nhiều hơn. Thiên nhiên diễm lệ quyến rũ hơn lên, hiển lộ, trong mắt người yêu thiên nhiên, là kỳ vọng chàng
thi sĩ sẽ ngưỡng mộ. (Trong thế giới mình) thi sĩ cô lập với những người đồng thời, nơi sự thật và nghệ thuật của mình, nhưng chàng bằng lòng, vì theo (cảm nhận) của chàng, việc mình làm sẽ hội tụ/hội ngộ được đám đông. Vì con người sống bằng sự thật, và cần được diễn đạt, thông tri. Trong tình yêu, trong nghệ thuật, trong tham lam, ham muốn, trong chính trị, lao động, trò chơi, chúng ta học cách tỏ bày những đớn đau thầm kín. Con người chỉ là một nửa mình, nửa kia là cách diễn đạt của hắn.
* như thiếu chữ “are” ở đây trong bản đánh máy của website ?
… Too feeble fall the impressions of nature on us to make us artists. Every touch should thrill. Every man should be so much an artist, that he could report in conversation what had befallen him. Yet, in our experience, the rays or appulses have sufficient force to arrive at the senses, but not enough to reach the quick, and compel the reproduction of themselves in speech. The poet is the person in whom these powers are in balance, the man without impediment, who sees and handles that which others dream of, traverses the whole scale of experience, and is representative of man, in virtue of being the largest power to receive and to impart.
…Ấn tượng thiên nhiên để lại dấu ấn trong chúng ta quá mờ nhạt để có thể khiến ta trở thành nghệ sĩ. Mọi xúc tiếp đáng lý nên làm ta rung động. Mỗi người lý ra phải là một nghệ sĩ, để có thể tiếp nhận, rồi tường trình giao cảm của mình mà thiên nhiên trao tặng. Nhưng, (tiếc thay), trong kinh nghiệm chúng ta, ánh sáng, hay lực kéo có thể diễn ra với ngũ giác, nhưng lại không thể khiến (óc mẫn tri ) nhanh bắt được sóng mà tái tạo lại chúng qua ngôn ngữ. Thi sĩ là người có được sự cân bằng các năng lực này, là người có thể “kiến thọ” không ngăn trở, và ứng xử với chúng cách mà những người khác mơ ước, chàng là kẻ “trên vai hai vầng nhật nguyệt” đi về trong kinh nghiệm “lữ thứ” , và đại biểu cho con người, theo cung cách là nguồn tiếp nhận và trao lại mạnh mẽ, (nồng nàn) nhất.
For the Universe has three children, born at one time, which reappear, under different names, in every system of thought, whether they be called cause, operation, and effect; or, more poetically, Jove, Pluto, Neptune; or, theologically, the Father, the Spirit, and the Son; but which we will call here, the Knower, the Doer, and the Sayer. These stand respectively for the love of truth, for the love of good, and for the love of beauty. These three are equal. Each is that which he is essentially, so that he cannot be surmounted or analyzed, and each of these three has the power of the others latent in him, and his own patent.
The poet is the sayer, the namer, and represents beauty. He is a sovereign, and stands on the centre. For the world is not painted, or adorned, but is from the beginning beautiful; and God has not made some beautiful things, but Beauty is the creator of the universe. Therefore the poet is not any permissive potentate, but is emperor in his own right. Criticism is infested with a cant of materialism, which assumes that manual skill and activity is the first merit of all men, and disparages such as say and do not, overlooking the fact, that some men, namely, poets, are natural sayers, sent into the world to the end of expression, and confounds them with those whose province is action, but who quit it to imitate the sayers. But Homer's words are as costly and admirable to Homer, as Agamemnon's victories are to Agamemnon...
Vì Vũ trụ có ba người con, sinh cùng lúc , (nhưng) tái hiện khi này khi khác dưới những cái tên khác nhau, trong các hệ thống tư tưởng; chúng có khi được gọi là Nguyên nhân, Tiến trình, hay Hậu quả; hay thơ hơn thì là Jove, Pluto, Neptune; hoặc, theo kiểu thần học thì là Cha, Thánh thần, và Con, nhưng ở đây ta sẽ gọi là Người Biết, Người Làm và Người Nói. Ba
“trự” này biểu trưng cho lòng yêu cái Chân, cái Thiện và Mỹ. Cả ba đồng hạng. Trong căn cốt, mỗi thứ đều là chính nó, (đại diện cho thể tính nó), nghĩa là nó không thể bị “leo lên, đè xuống” mổ xẻ, phân tích, và mỗi đều “mang bóng dáng”, năng lực của hai thứ kia tiềm
tàng trong nó, cũng như hình hài bản quyền chính nó.
Nhà thơ là người phát ngôn, kẻ gọi tên, và làm đại biểu cho cái đẹp. Hắn có thẩm quyền
tối thượng, và lập cước nơi trung tâm. Bởi thế giới từ khởi nguyên— đã Đẹp đẽ — không cần sơn phết, tô chuốc, trang điểm; và (lúc ấy) Thượng đế cũng chưa làm ra những thứ đẹp, nhưng cái Đẹp (viết hoa) đã là người sáng thế của của vũ trụ (1), Vì vậy nhà thơ không phải là một ông hoàng hay lãnh chúa lười nhác, dễ dãi, nhưng là một đế vương, trong
chính bản sắc. Phê bình (của cuộc đời, trong đời sống xã hội) thường vướng đầy những
giả dối, đạo đức giả của tinh thần vật chất khi cho rằng bàn tay giỏi giang, sức vóc năng động mới là ưu điểm hạng nhất của con người, và đánh giá kẻ nói nhiều, làm ít là kém cỏi; quên đi có những người, định danh là thi sĩ, vốn là những người phát ngôn tự nhiên, những người được đem đến cho thế giới ở tận cùng diễn đạt, và lầm lẫn (thi sĩ) với những người trong thế giới hành động, nhưng bỏ nghề, quẳng nghiệp để bắt chước nhà thơ. Nhưng những giòng chữ của Homer thì cũng đắt giá và đáng ngưỡng mộ đ/với Homer, như chiến thắng của Agamemnon thì đắt giá, đáng trân quý với Agamemnon... (2)
...
The sign and credentials of the poet are, that he announces that which no man foretold.
He is the true and only doctor; he knows and tells; he is the only teller of news, for he was present and privy to the appearance which he describes. He is a beholder of ideas, and an utterer of the necessary and causal. For we do not speak now of men of poetical talents, or of industry and skill in metre, but of the true poet. I took part in a conversation the other day, concerning a recent writer of lyrics, a man of subtle mind, whose head appeared to be a music-box of delicate tunes and rhythms, and whose skill, and command of language, we could not sufficiently praise. But when the question arose, whether he was not only a
lyrist, but a poet, we were obliged to confess that he is plainly a contemporary, not an eternal man. He does not stand out of our low limitations, like a Chimborazo under the line, running up from the torrid base through all the climates of the globe, with belts of the herbage of every latitude on its high and mottled sides; but this genius is the landscape-garden of a modern house, adorned with fountains and statues, with well-bred men and women standing and sitting in the walks and terraces. We hear, through all the varied music, the ground-tone of conventional life. Our poets are men of talents who sing, and not the children of music. The argument is secondary, the finish of the verses is primary.
Dấu hiệu và biểu thị tài năng của thi sĩ là, ông tuyên ngôn điều chưa ai nói. Ông là một
bác sĩ đích thực và duy nhất; ông biết và thông báo; là kẻ duy nhất có thể gọi là “thông tri”, bởi ông hiện diện và tham dự vào hiển lộ ông diễn tả. Ông là kẻ chiêm nghiệm ý tưởng, và là người nói lên điều cần thiết và nhân quả. (Ở đây) chúng ta không bàn đến những tài năng thơ, hoặc sự cần mẫn, năng khiếu trong âm vận, mà đang nói đến những thi sĩ đích thực. Trong một mạn đàm (về thơ) ngày nọ, tôi có gặp một vị viết lời thơ, âm điệu rất thanh
nhã, điêu luyện, người mà khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ chúng tôi không thể hết lời tán tụng. Nhưng khi bàn đến vấn đề ông có đích thực là một nhà thơ, hay chỉ là người có kỹ năng tuyệt vời với âm-lời, chúng tôi buộc phải nhận định là ông chỉ là “tiếng nói” đương thời, không phải cái thuộc vĩnh cửu (3). Trong cảm nhận của chúng tôi, dù không đặt quá cao xa, nơi ông, không toát ra điều như núi lửa Chimborazo, theo đuờng (contour) đi lên từ chân gốc bỏng nhiệt , kinh qua mọi thời tiết , quanh mình là đầy những rơm cỏ nơi các vĩ tuyến, cùng các mặt đậm nhạt sắc màu; thì tài năng lớn của ông chỉ như vườn-phong cảnh trong một căn nhà đới mới, trang trí tuợng và suối phun nước, quý ông, quý bà lịch thiệp đứng ngồi đây đó nơi các lối đi, thềm bậc. Chúng tôi nghe ra : âm thanh đap nền cho
một đời sống ước lệ/quy ước, qua các thang âm được nghe. Nhà thơ ( theo ý cao quý của Emerson) của chúng tôi là thi tài hát (thơ), không phải là con đẻ của âm nhạc. (4) Tranh luận/làm rõ nghĩa là thứ yếu, việc hoàn tất bài thơ mới là (cho đích đáng, hoàn thiện) mới là chính yếu.
-------
Từ đây trở đi không trích phần Anh ngữ
Lịch sử ta gọi là thiêng liêng chứng thực rằng ngày sinh của một nhà thơ là một sự kiện
chính yếu trong ghi chép thứ tự lịch sử. Con người, thường xuyên bị nhầm lẫn trong khoan đó, dù sao cũng vẫn theo dõi sự xuất lộ của một người anh em, người có thể soi sáng một chân lý cho tới khi họ có thể thấy bằng ánh sáng của mình. Thường, tôi đọc một bài thơ có khả năng soi sáng hồn tôi bằng cả một khoái lạc lớn rộng! Và khi ấy xiềng xích hồn tôi được phá vỡ; tôi vượt lên trên mây mờ và khung trời đục tôi hiện hữu trong đó — đục nhưng mang vẻ trong— và từ thiên đàng chân lý tôi sẽ thấy, và hiểu ra được liên hệ, tương quan của tôi. Đìều đó khiến tôi có thể làm hòa với cuộc sống, nhìn thiên nhiên với cặp mắt mới mẻ, “canh tân” nó, nhìn những thứ tầm thường, nhỏ nhặt khác đi, và biết mình làm gì. Đời sống không còn là những âm thanh hỗn độn; tôi sẽ thấy đuợc đàn ông, đàn bà và phân biệt được họ khác với kẻ si dại hay ác quỷ ra sao. Ngày này là ngày còn tươi đẹp hơn cả ngày sinh nhật của tôi : (ở ngày sinh nhật) tôi là một con thú, bây giờ tôi được mời vào cõi khoa học của sự thật. (5). Đấy là hi vọng, nhưng hoa kết quả thế nào còn phải chờ. Thường khi thì : người có cánh bay này, kẻ sẽ mang tôi tới thiên đàng này, quẳng tôi lên mây, phóng nhảy ( rất nghệ thuật ) với tôi từ đám mây này sang đám mây khác, khi vẫn xác định là ông ấy đang hướng về cõi của Đế thiên; và tôi, vốn là kẻ tập sự, chỉ có thể dần chậm nhận ra là ông ta không biết lối đến thiên đường, mà chỉ là “cầu cong ảo vọng” làm tôi thán phục khả năng bay của ông, như chim bay, cá vượt khỏi măt đất hoặc mặt nước một chút. Nhưng với cõi trời có
khả năng thâm nhập, dưỡng dục bao la và thăm thẳm kỳ diệu , ông ta không thể nào vào cư ngụ. Tôi, sau đó, lại trở về với góc tường vôi trắng lòng mình, và lại sống đời “hào hoa hư ngụy” như xưa, và mất niềm tin vào những người có thể đưa tôi đến nơi mình muốn đến.
...
Vũ trụ là cái xuất lộ, hiển hoạt bên ngoài của linh hồn. Nơi nào có đời sống , điều ấy
phát sinh ra hiện hữu chung quanh. Khoa học của chúng ta là “cái” mang tính cảm xúc, xúc chạm, vì thế nó cạn nông. Trái đất, các thiên thể, vật lý, và hóa học, chúng ta học, tìm hiểu một cách “cảm giác”, như thể chúng tự hiện hữu; nhưng những thứ này hiện hữu như kẻ giúp việc, hậu thuẫn cho Hữu thể chúng ta mang trong mình…
...

…Thiên nhiên làm nên con người, và (vì) đã nuôi hắn đến trưởng thành, Bà không còn sợ mất hắn, nhưng bà gỡ từ hắn ra một hình hài-tính nhân mới, cái thể loại không thể bị
hủy hoại như con người xác thịt. Thế nên khi Linh hồn thi sĩ đã trưởng thành, bà mới gỡ ra gởi đi những bài thơ, bài hát từ hồn thơ ấy— một “truyền nhân” vô uý, vô miên ( không ngủ), bất tử, không bị Thời gian làm mai một—một truyền nhân sống động, trên vai có cánh (thiên thần) [ vốn là đặc tính mà linh hồn hắn được sinh thành]; đưa hắn nhanh về những phương trời miên viễn; gắn vào tim hắn vô vàn không đảo ngược được. Bài hát/thơ, như thế bay lượn bất tử trong vòm trời, sẽ bị rất nhiều phản đối, “kết án” ồn ào của đám đông hơn gấp bội và đe dọa sẽ nuốt chửng truyền nhân này, nhưng cuối cùng chúng rớt lại, sau những phút bềnh bồng nhảy với ngắn ngủi, rồi tan rã, vì vốn là hiện thân không cánh từ xuất xứ không cánh. Trong khi đó, tiếng du dương của thần thái
tiêu dao mặc xứ, mật xứ của nhà thơ thẩm thấu sâu trong thời gian không cùng.


---
REF

.






No comments:

Post a Comment